Sau nhiều năm bị hạn chế bởi các yếu tố chiến tranh, chính trị, và kinh tế, du lịch Việt Nam dần trở thành một nhu cầu thiết yếu của người dân khi đời sống nâng cao, nhu cầu về trải nghiệm và nghỉ ngơi ngày càng tăng. Sự phát triển của kinh tế, sự bùng nổ của mạng xã hội và các hình thức truyền thông mới cũng góp phần thúc đẩy văn hóa đi du lịch, biến nó từ một hoạt động xa xỉ thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của nhiều người. Hãy để Lins Vietnam sẽ đồng hành cùng bạn khám phá khó khăn và thách thức trong giai đoạn này.

Việt Nam tập trung tái thiết ngành Du lịch, từng bước mở rộng hoạt động

Kể từ sau chiến thắng năm 1975, trong không khí đất nước thống nhất, ngành du lịch đã triển khai công tác tiếp nhận, bảo tồn và mở rộng các cơ sở vật chất mới tại nhiều địa phương và các tỉnh thành khác. Cùng lúc đó, các doanh nghiệp du lịch thuộc sở hữu nhà nước dần được thành lập, đảm nhận vai trò tiên phong trong việc tổ chức lữ hành, xúc tiến du lịch, mở rộng thị trường và đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngành.

Trước năm 1986, lực lượng lao động du lịch chủ yếu hoạt động theo mô hình bao cấp, phục vụ các nhiệm vụ đối ngoại và ngoại giao. Năm 1986, Đại hội lần thứ 6 của Đảng quyết định thực hiện chính sách “Đổi mới” – mở ra hướng phát triển kinh tế theo khuôn khổ thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt để Việt Nam bắt đầu mở cửa với thế giới, trong đó du lịch dần trở thành nhu cầu thực sự của người dân. Ngay sau đó, Việt Nam bắt đầu đón khách quốc tế trở lại, dù số lượng ban đầu còn hạn chế.

Ngày 27/06/1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập theo Nghị quyết số 262 NQ/TVQH của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Đến tháng 8/1987, Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

Lịch sử du lịch Việt Nam 1986-2000

Nền kinh tế từng bước được mở cửa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động phát triển kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp du lịch nhà nước đã được Tổng cục Du lịch và các địa phương rất quan tâm.

Trong giai đoạn này, ngành Du lịch đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn và thách thức mới. Ngoài việc duy trì chức năng phục vụ các đoàn khách cấp cao của Đảng và Nhà nước, các cơ sở du lịch tại hầu hết các tỉnh thành đã nhanh chóng thích ứng, chuyển sang tổ chức và kinh doanh các hoạt động du lịch dịch vụ.

Hội nhập với thế giới, tăng trưởng phát triển ngành du lịch

Du lịch Việt Nam trong giai đoạn này đã đóng góp tích cực vào công tác đối ngoại, giao lưu quốc tế. Thông qua các hoạt động tuyên truyền và giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế; Tổ chức các chuyến du lịch giao lưu giữa nhân dân hai miền Nam – Bắc nhằm củng cố tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc. Việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền này đã giúp cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về quan điểm và khát vọng hòa bình, độc lập, phát triển của Việt Nam sau chiến tranh, góp phần phá vỡ thế bao vây cấm vận của Mỹ.

Về mặt kinh tế – xã hội, ngành Du lịch Việt Nam ghi nhận những bước tiến mới. Đáng chú ý, dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng và hỗ trợ tài chính từ UNDP, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã nghiên cứu và xây dựng Dự án VIE 89/003 nhằm định hướng phát triển du lịch cho giai đoạn 1990 – 2000.

Tháng 4/1990, Tổng công ty Du lịch Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại bộ máy của Tổng cục Du lịch cũ, chịu sự quản lý Nhà nước trực tiếp của Bộ Văn hoá – Thông tin – Thể thao và Du lịch. Sự kiện này đã đặt nền móng cho cơ chế quản lý ngành, mở đường cho việc xây dựng các hoạt động xúc tiến, đào tạo và phát triển thị trường du lịch đánh dấu bước chuyển mình của du lịch Việt Nam, hướng tới một hệ thống quản lý chuyên nghiệp và quy hoạch bài bản hơn.

Mỹ bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam

Vào ngày 03/02/1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại với Việt Nam, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ hai nước, mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao sau này. 

Ngày 26/6/1994, Mỹ bãi bỏ cấm vận Việt Nam – cột mốc quan quan trọng giúp làm tăng trưởng khách du lịch quốc tế đột biến hình thành tuyến “vàng” di sản: Hà Nội – Huế – Hội An – Sài Gòn. Sự kiện này đã trở thành trụ cột thu hút, tạo nên đường “hành lang” du lịch quan trọng, góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới.

Lịch sử du lịch Việt Nam 1986-2000

Tối 04/02/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam  – Nguyễn Cơ Thạch phát biểu trong buổi dạ hội nhân dịp Chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận thương mại tại khách sạn Thắng Lợi (Hà Nội). Ảnh: TTXVN 

Vào ngày 11/07/1995, Tổng thống Bill Clinton đã công bố “bình thường hóa quan hệ” với Việt Nam, đánh dấu trang mới trong lịch sử quan hệ ngoại giao của hai nước. Sáng 12/07/1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đọc tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. 

Hội An – Di sản Văn hoá thế giới – Niềm tự hào của dân tộc Việt

Ngày 4/12/1999, tại kỳ họp lần thứ 23 của Uỷ ban Di sản Thế giới tại Marrakech (Ma-rốc), UNESCO chính thức ghi danh Phố Cổ Hội An là Di sản Văn hóa thế giới. Việc này không chỉ là dấu mốc quan trọng trong gìn giữ văn hóa – lịch sử, mà còn là cú hích lớn để ngành du lịch Hội An phát triển bền vững theo hướng kết hợp bảo tồn và khai thác giá trị di sản.

Lịch sử du lịch Việt Nam 1986-2000

Phố Cổ Hội An

Năm 1999, Đô thị cổ này có 17 cơ sở khách sạn, nhà nghỉ, nổi tiếng với sự pha trộn văn hóa giữa phong cách Á Đông và châu Âu. Bên cạnh đó,các kiến trúc nhà cổ, hội quán và chùa chiền, các giá trị văn hóa phi vật thể như phong tục, tín ngưỡng và nghề truyền thống cũng được gìn giữ. Hội An đã trở thành một biểu tượng văn lâu bền cho các hoạt động bảo tồn di sản, hội nhập và phát triển kinh tế du lịch, đạt được nhiều thành tựu to lớn.

Đặc biệt, làng nghề truyền thống ở Hội An như nghề mộc, gốm mỹ nghệ, trồng rau, làm thuốc, và làm lồng đèn cũng góp phần làm cho cảng thị Hội An trở nên nhộn nhịp và sầm uất từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX.

Ngày 11/11/1998, bước ngoặt phát triển quan trọng cho ngành Du lịch Việt Nam được tạo ra khi Bộ chính trị ra Thông báo kết luận số 179-TB/TW về phát triển du lịch trong tình hình mới. Đây là tiền đề thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch (1999), Pháp lệnh Du lịch (1999)  được đổi tên thành Luật Du lịch và Chương trình Hành động quốc gia về Du lịch (2000).

Đến năm 2000, ngành Du lịch Việt Nam đã có bước tiến vượt trội về trải nghiệm nhiều loại hình du lịch khác nhau từ nghỉ dưỡng cho đến mạo hiểm và thể thao, khám phá văn hoá. Hơn hết, thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ của Việt Nam kết hợp với ẩm thực đa sắc và du lịch nghỉ dưỡng đã tạo ra nhiều khung cảnh tuyệt vời.

Nhìn chung, du lịch Việt Nam (1986 – 2000) có rất nhiều sự thay đổi so với các giai đoạn trước. Từ năm 2000, ngành Du lịch Việt Nam đã mở rộng cánh cửa với thế giới để đón chào du khách ngoại quốc. Ngoài ra, du khách Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận với trải nghiệm lưu trú trên chính mảnh đất của mình. 

[…]

Tìm hiểu thêm về chúng tôi tại:

Tài liệu tham khảo

[1] Du lịch Việt Nam 1975-1990: Đi lên từ chiến tranh, bước đầu mở cửa

[2] Du lịch Việt Nam 65 năm chuyển mình mạnh mẽ và vươn tầm hội nhập sâu rộng

[3] LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

[4] 30 năm Mỹ dỡ bỏ cấm vận Việt Nam: Từ cựu thù thành đối tác Chiến lược toàn diện

[5] Hội An được UNESCO công nhận là di sản thế giới – Niềm tự hào Việt Nam

Xem thêm các bài viết tiếp theo trong series “Lịch sử du lịch Việt Nam”

Giai đoạn 1: Bước đệm để hình thành và khởi phát du lịch Việt Nam

Giai đoạn 2: Du lịch Việt Nam – Giữ hơi ấm văn hoá trong chiến tranh (1945-1975)

Giai đoạn 4: Thời kỳ vàng của ngành Du lịch Việt Nam (2000-2019)

→ Giai đoạn 5: Du lịch bền vững & từng bước phục hồi ở Việt Nam