Trải dài từ những tấm bia đá khắc tên Tiến sĩ đến kho mộc bản lưu giữ quốc sử, di sản tư liệu Việt Nam là những kho tàng sống động phản ánh trí tuệ và bản sắc của dân tộc qua từng thời kỳ. Việc 11 di sản quý báu của Việt Nam được UNESCO công nhận không chỉ là niềm tự hào mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử. Trong hành trình ấy, Lins Vietnam mong muốn đồng hành cùng bạn đọc khám phá và lan tỏa vẻ đẹp bền vững của ký ức Việt qua từng trang sử và giai điệu.

11 di sản tư liệu

Di sản tư liệu là gì?

Theo UNESCO, “Ký ức thế giới là những hồi ức của các dân tộc được chọn lọc và ghi lại bằng tư liệu, ghi lại sự phát triển về tư tưởng, những khám phá và thành tựu của xã hội loài người. Những di sản tư liệu này đại diện cho một bộ phận lớn di sản văn hóa thế giới. Đó là di sản của quá khứ để lại cho thế giới trong hiện tại và tương lai”. Từ nhận thức đó, năm 1992, UNESCO khởi xướng Chương trình Ký ức Thế giới (Memory of the World – MOW) nhằm xác định, ghi nhận và bảo vệ những tư liệu quý hiếm có giá trị đặc biệt ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu. Việc được công nhận không chỉ khẳng định tầm vóc quốc tế của di sản, mà còn mở ra cơ hội cho công tác bảo tồn, số hóa và lan tỏa giá trị đến cộng đồng.

Tại Việt Nam, Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 10382:2014 xác định: “Di sản tư liệu là sản phẩm mang thông tin được hình thành từ những ký hiệu, mật mã, âm thanh hoặc hình ảnh dưới nhiều dạng thức độc đáo, phản ánh thành tựu tiêu biểu về lịch sử, tư tưởng, văn hóa và khoa học”.

Với bề dày lịch sử hơn 4000 năm, Việt Nam đã và đang gìn giữ nhiều loại hình di sản quý báu. Trong đó, 11 di sản tư liệu Việt Nam được UNESCO công nhận là minh chứng sống động cho trí tuệ dân tộc, từ triều đình phong kiến đến tri thức dân gian, từ cộng đồng thiểu số đến các giá trị mang tính toàn dân tộc.

11 di sản tư liệu Việt Nam được UNESCO công nhận

Việt Nam chính thức ghi dấu trên bản đồ di sản tư liệu thế giới từ năm 2009. Tính đến nay, đất nước chúng ta đã có 11 di sản tư liệu được UNESCO công nhận ở cấp độ khu vực và toàn cầu. 

Mộc bản triều Nguyễn

Năm được công nhận: 2009

Phạm vi: Di sản tư liệu thế giới

11 di sản tư liệu

Mộc bản là những tấm ván gỗ được khắc chữ Hán Nôm ngược, dùng để in sách – một phương pháp phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam. Trong số đó, Mộc bản triều Nguyễn là bộ tài liệu đặc biệt, hội tụ giá trị về cả hình thức, nội dung lẫn kỹ thuật chế tác. Đây chính là bản khắc gốc của nhiều bộ sách chính văn, chính sử quan trọng, được biên soạn và in ấn chủ yếu dưới thời nhà Nguyễn. Với tổng cộng 34.619 tấm mộc bản, kho tư liệu này bao gồm hơn 100 đầu sách, bao quát nhiều lĩnh vực như: lịch sử, địa lý, chính trị – xã hội, quân sự, pháp luật, văn hóa – giáo dục, tôn giáo, tư tưởng – triết học, ngôn ngữ và văn học. Hiện nay, kho mộc bản được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt).

Bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Năm được công nhận: 2010

Phạm vi: Di sản tư liệu thế giới

11 di sản tư liệu

Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện lưu giữ 82 bia Tiến sĩ, tương ứng với 82 khoa thi từ năm 1484 đến 1780, ghi danh những người đỗ đại khoa thời Lê – Mạc. Đây là nguồn tư liệu gốc duy nhất còn lại, phản ánh sinh động chế độ đào tạo và tuyển chọn nhân tài kéo dài hơn 300 năm. Mỗi tấm bia là một tác phẩm điêu khắc độc đáo, đồng thời chứa đựng áng văn chương thể hiện tư tưởng giáo dục và triết lý trị quốc thời phong kiến. Năm 2010, UNESCO công nhận 82 bia Tiến sĩ là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và đến 2011 là Di sản tư liệu thế giới toàn cầu. Các bia đá này cũng được Chính phủ xếp hạng là Bảo vật quốc gia vào năm 2015.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang

Năm được công nhận: 2012

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

Bộ 3.050 mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) là kho tư liệu quý bằng chữ Hán và Nôm, gồm kinh Phật, luật giới và các trước tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông cùng các thiền sư phái Trúc Lâm. Đây là Phật phái thuần Việt đầu tiên, do Trần Nhân Tông – một vị hoàng đế đi tu – sáng lập, trên nền tảng tiếp thu chọn lọc tinh hoa Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa. Các mộc bản thể hiện đậm nét tư tưởng nhập thế, nhân văn và bản sắc dân tộc của Phật giáo Trúc Lâm. Đồng thời, chúng là minh chứng cho quá trình tự chủ văn hóa, chuyển từ chữ Hán sang phát huy chữ Nôm – ngôn ngữ của người Việt. 

11 di sản tư liệu

Văn thơ kiến trúc cung đình Huế

Năm được công nhận: 2016

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

11 di sản tư liệu

Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là hệ thống gần 3.000 tác phẩm văn chương chữ Hán được sáng tác bởi các vua và danh sĩ triều Nguyễn, được chạm khắc, khảm hoặc cẩn lên các chi tiết kiến trúc như liên ba, đố bản, vách gỗ, đá, đồng, pháp lam, sành sứ… trong các công trình cung điện, lăng tẩm, đền miếu. Hình thành từ thời vua Minh Mạng và phát triển mạnh đến thời Khải Định, hệ thống này không chỉ đồ sộ về số lượng mà còn đặc sắc ở phong cách “nhất thi nhất họa” – mỗi bài thơ đi cùng một bức họa minh họa, trở thành nguyên tắc trang trí đặc trưng của kiến trúc cung đình Huế. Các tác phẩm thể hiện nội dung phong phú: triết lý trị quốc, đạo đức làm người, thiên nhiên, lịch sử… qua lối thể hiện tinh xảo, hài hòa giữa văn chương và mỹ thuật. Đây là loại hình di sản duy nhất trên thế giới, phản ánh sinh động một giai đoạn rực rỡ của nghệ thuật kiến trúc và tư tưởng thẩm mỹ Việt Nam. 

Mộc bản trường Phúc Giang

Năm được công nhận: 2016

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

11 di sản tư liệu

Mộc bản trường học Phúc Giang là bộ tư liệu giáo dục cổ quý hiếm, được dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu (nay thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) biên soạn và khắc in từ năm 1758 đến 1788. Đây là khối mộc bản duy nhất và cổ nhất về giáo dục của một dòng họ còn được lưu giữ tại Việt Nam. Bộ mộc bản này từng được sử dụng liên tục trong giảng dạy tại trường Phúc Giang – một trung tâm học thuật nổi tiếng thời Lê – Nguyễn, phục vụ hàng nghìn thầy trò suốt gần ba thế kỷ.

Châu bản triều Nguyễn

Năm được công nhận: 2017

Phạm vi: Di sản tư liệu thế giới

11 di sản tư liệu

Châu bản triều Nguyễn là tập hợp các văn bản hành chính hình thành trong quá trình điều hành đất nước của triều Nguyễn, gồm tấu trình từ các cơ quan trong triều và địa phương, chỉ dụ của vua và một số văn kiện ngoại giao. Đây là khối tài liệu duy nhất còn lưu giữ được bút tích phê duyệt của các vua Nguyễn, phản ánh trực tiếp cơ chế quản lý và tư duy trị quốc thời phong kiến. Một giá trị đặc biệt của Châu bản là những tư liệu quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời, chúng cũng là nguồn sử liệu gốc để biên soạn các bộ chính sử lớn như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí hay Quốc triều chính biên toát yếu. UNESCO đã công nhận Châu bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm 2014, và tiếp tục vinh danh là Di sản tư liệu thế giới vào năm 2017.

Hoàng hoa sứ trình đồ (Hành trình đi sứ Trung Hoa)

Năm được công nhận: 2018

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

11 di sản tư liệu

Hoàng hoa sứ trình đồ là bản đồ – ký sự cổ do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh biên soạn vào những năm 1765–1768, ghi lại hành trình đi sứ Trung Hoa dưới triều vua Lê Hiển Tông. Tác phẩm mô tả chi tiết tuyến đường từ biên giới Việt – Trung đến Bắc Kinh, với các điểm dừng, thời gian lưu trú, địa hình, phong cảnh và nghi lễ ngoại giao theo cả đường thủy lẫn đường bộ. Đây là nguồn tư liệu độc đáo phản ánh sinh động hoạt động đối ngoại, giao thương và văn hóa giữa hai quốc gia trong nhiều thế kỷ. 

Bản hiện còn là bản sao tay duy nhất chép lại năm 1887, do con cháu dòng họ Nguyễn Huy lưu giữ tại làng Trường Lưu (Hà Tĩnh). Với giá trị đa diện về lịch sử, địa lý, văn hóa và nghệ thuật, Hoàng hoa sứ trình đồ là một trong những di sản tư liệu đặc sắc nhất về quan hệ ngoại giao Việt – Trung xưa.

Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng

Năm được công nhận: 2022

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

11 di sản tư liệu

Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn là tập hợp 78 văn khắc trên đá bằng chữ Hán và Nôm, được khắc từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX bởi vua Minh Mạng, quan lại triều Nguyễn, cao tăng và nhiều danh sĩ. Với nhiều thể loại như thơ, tán, đề từ, câu đối…, các bia đá này phản ánh đời sống văn hóa, tôn giáo và nghệ thuật đương thời, đồng thời thể hiện sự giao thoa giữa Việt Nam, Trung Hoa và Nhật Bản trong khu vực. Đây cũng là những tư liệu quý ghi dấu vai trò của Ngũ Hành Sơn như một điểm dừng văn hóa, tín ngưỡng trên tuyến hàng hải quốc tế cổ.

Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh

Năm được công nhận: 2022

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

11 di sản tư liệu

Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu là bộ sưu tập độc bản gồm 26 sắc phong, 19 văn bằng và 3 bức trướng, được viết tay bằng chữ Hán và Nôm từ năm 1689 đến 1943, trên các chất liệu quý như giấy dó và lụa. Đây là nguồn tư liệu nguyên gốc, có giá trị lịch sử cao; phản ánh sâu sắc đời sống văn hóa, giáo dục và mối quan hệ xã hội của một làng quê miền Trung trong hơn 250 năm.

Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế

Năm được công nhận: 2024

Phạm vi: Di sản tư liệu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

11 di sản tư liệu

Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế được vua Minh Mạng cho thực hiện từ năm 1835 đến 1837, gồm 162 hình ảnh và chữ Hán khắc nổi, hiện vẫn đặt nguyên vị trí trước Thế Tổ Miếu. Các đỉnh đồng không chỉ phản ánh tinh hoa văn hóa, lịch sử, địa lý, y học và mỹ thuật thư pháp, mà còn chứa đựng tư tưởng nhân văn hiếm thấy khi đề cao vai trò người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Tác phẩm còn thể hiện trình độ đúc đồng bậc thầy của thợ thủ công xưa và mang ý nghĩa biểu trưng về sự thống nhất, trường tồn của vương triều Nguyễn.

Bộ sưu tập tài liệu của nhạc sĩ Hoàng Vân (1930-2018)

Năm được công nhận: 2025

Phạm vi: Di sản tư liệu thế giới

11 di sản tư liệu

Bộ sưu tập của Nhạc sĩ Hoàng Vân gồm hơn 700 tác phẩm âm nhạc sáng tác từ năm 1951 đến 2010, phản ánh sâu sắc hành trình lịch sử và tâm hồn Việt qua nhiều thời kỳ. Các tác phẩm kết hợp hài hòa giữa âm nhạc cổ điển phương Tây và âm nhạc dân tộc, không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn là nguồn tư liệu quý phục vụ nghiên cứu văn hóa – xã hội. Đây là bộ sưu tập âm nhạc đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới vào ngày 10/4/2025 tại Paris.

Di sản tư liệu Việt Nam: Từ vinh danh toàn cầu đến bài toán hành động cho tương lai

11 di sản tư liệu Việt Nam được UNESCO công nhận không chỉ là những chứng tích quý giá về trí tuệ, văn hóa và lịch sử dân tộc, mà còn là sợi dây kết nối xuyên thời gian giữa quá khứ – hiện tại – tương lai. Từ những mộc bản khắc chữ Hán Nôm, bia đá lưu danh người tài, đến giai điệu của hơn 700 tác phẩm âm nhạc, mỗi di sản đều mang trong mình ký ức sống động và bản sắc không thể thay thế của con người Việt Nam.

Tuy nhiên, trước nhịp sống hiện đại và sự bùng nổ của công nghệ, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu đang đối mặt với nhiều thách thức: xuống cấp vật lý, rủi ro thất lạc, và sự thờ ơ của thế hệ trẻ. Di sản không thể tự bảo vệ mình – chúng cần được số hóa, nghiên cứu, giới thiệu một cách hấp dẫn và tiếp cận được công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Bảo tồn di sản không chỉ là giữ lại quá khứ, mà còn là cách chúng ta thể hiện trách nhiệm với tương lai, với bản sắc văn hóa mà tổ tiên để lại.

Để hành trình ký ức này tiếp tục lan tỏa, mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ cần trở thành một “người giữ ký ức”, một “người kể chuyện văn hóa” bằng chính tình yêu, sự hiểu biết và niềm tự hào với di sản dân tộc.

Cùng Lins Vietnam lan tỏa những giá trị tinh thần bền vững ấy, để những trang sử và giai điệu Việt không chỉ sống trong ký ức, mà còn vang vọng trong từng bước tiến của tương lai.

Tìm hiểu thêm về chúng tôi tại:

Để lại một bình luận